Hiển thị các bài đăng có nhãn doanh nhan. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn doanh nhan. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 23 tháng 10, 2010

Muốn mở khóa Sáng Tạo, hãy học theo Steve Jobs

Một dự án nghiên cứu trong 3 năm của đại học Havard xác nhận điều mà Jobs đã nói với một nhà báo 15 năm trước: "Sự sáng tạo chỉ là việc kết nối mọi thứ lại với nhau".

Bài viết trích từ cuốn sách Bí mật Đổi Mới của Steve Jobs: "Những nguyên tắc khác biệt tạo nên thành công đột phá" (McGraw-Hill, October 2010).

"Sự Sáng Tạo chỉ là việc kết nối mọi thứ lại với nhau"

Tên gọi của công ty, Apple, bắt nguồn từ một loại trái cây, đúng ra là bắt nguồn từ quan điểm một chiếc máy tính nên như như thế nào của Steve Jobs: đó phải là một thiết bị đơn giản và dễ tiếp cận.

Mặc dù Jobs đã bỏ học trường Đại học Reed ở Portland, ông vẫn thường quay lại Oregon định kỳ để chia sẻ suy nghĩ với những người có tư tưởng giống ông - những người theo phái Zen, có tên là All-One Farm, thường trồng táo.

Trong một chuyến đi, Jobs đã có một quan sát dường như là rất vụn vặt, một cải tiến với chữ I nhỏ. Tuy nhiên, phát hiện này của ông lại đem đến một nền tảng để thống nhất thương hiệu sản phẩm. Jobs và (Steve) Wozniak đã quyết định thành lập công ty riêng của họ với 1.000 USD. Họ cần một cái tên để hoàn thiện hóa sự hợp tác này.

Woznial kể lại: "Tôi nhớ khi đó tôi đang lái xe đi trên đường Cao Tốc 85 đón Steve từ sân bay. Steve trở về sau một chuyến thăm một nơi ở vùng Oregon, nơi mà anh ta gọi là vườn táo. Steve gợi ý một cái tên - Apple Computer... Chúng tôi đều đã cố gắng nghĩ tới những cái tên nghe có vẻ kỹ thuật hơn nhưng không thể có tên nào hay cả. Apple là tên hay nhất trong số những cái tên mà chúng tôi có thể nghĩ tới.

Chính vì thế, công ty được đặt tên là Apple. Nó phải được đặt là Apple".

Rõ ràng, câu chuyện của Steve Jobs và vườn táo đưa ra một cái nhìn mơ hồ về cách thức tư duy của Jobs.

"Sự Sáng Tạo chỉ là việc kết nối mọi thứ lại với nhau" (Ảnh: BusinessWeek)

Trong nhiều năm liền, các nhà tâm lý học đã cố gắng tìm câu trả lời cho câu hỏi: "Điều gì làm lên sự khác biệt của những con người sáng tạo?"

Nhiều nhà nghiên cứu tại Trường Havard đã tiến hành một cuộc kiểm tra kỹ lưỡng nhất trong vòng 6 năm và phỏng vấn 3.000 tổng giám đốc điều hành của các công ty để tìm ra câu trả lời.

Nghiên cứu của Đại học Harvard chỉ ra rằng, kỹ năng số một phân biệt những con người sáng tạo và những chuyên gia bình thường là kết hợp - khả năng kết nối thành công những câu hỏi, vấn đề hay những ý tưởng dường như không liên quan tới nhau trong những lĩnh vực khác nhau.

Một dự án nghiên cứu trong 3 năm của đại học Havard xác nhận điều mà Jobs đã nói với một nhà báo 15 năm trước: "Sự sáng tạo chỉ là việc kết nối mọi thứ lại với nhau".

Quan điểm tạo ra những kết nối sáng tạo thông qua việc tìm kiếm trải nghiệm mới là điều đáng để đề cập sâu hơn, vì nó đóng một vai trò quan trong trong cách mà Steve Jobs đã phát minh ra hết sản phẩm tiên tiến này đến sản phẩm tiên tiến khác.

Jobs là người không đi theo những suy nghĩ mang tính lối mòn, ông luôn xông xáo tìm kiếm, tấn công và lật đổ những quan điểm truyền thống. Và theo Gregory Bern, một nhà thần kinh học lỗi lạc tại Trường Đại học Emory, những người như vậy, đặc biệt là những nhân vật thành công, đều bị lôi cuốn bởi những trải nghiệm mới".

Trải nghiệm những địa danh và những con người mới lạ

Jobs không nhìn mọi việc theo con mắt khác so với chúng ta. Jobs chỉ nhận thức chúng theo một cách khác. Tầm nhìn không giống với nhận thức, nhận thức phân biệt một người sáng tạo và một kẻ bắt chước. Tầm nhìn là một quá trình mà các hạt photon ánh sáng đập vào các tế bào tiếp nhận ánh sáng của võng mạc mắt và được truyền như những xung lực thần kinh tới các phần khác nhau của bộ não.

Nhận thức, như Berns đã chỉ ra "là một quá trình phức tạp hơn mà bộ não phiên dịch những tín hiệu này". Hàng chục người xem giao diện sử dụng đồ họa tại công ty nghiên cứu và phát triển Xerox PARC ở Palo Alto, nhưng chỉ mình Jobs có nhận thức hoàn toàn khác. Ông ấy có một khả năng sáng tạo vô biên.

(Ảnh: Themebin)

Chìa khóa cho hướng suy nghĩ khác biệt chính là sự nhận thức hoàn toàn khác thông qua đôi mắt của một người tiên phong. Và để nhìn mọi thứ qua đôi mắt đó, bạn phải buộc não bộ của bạn tạo ra những kết nối nếu không mọi thứ sẽ bị bỏ lỡ.

Khi Steve Jobs tham gia khóa học viết chữ đẹp, đây là một trải nghiệm mới mẻ bùng cháy óc sáng tạo của ông. Khi Jobs ngồi trầm ngâm ở vườn táo, ông đã tìm thấy một điều mới dẫn dắt ông tới những suy nghĩ sáng tạo. Khi Jobs thăm Ấn Độ những năm 1970, ông trải nghiệm những điều hoàn toàn khác biệt so với cuộc sống ở ngoại ô California của ông khi ấy.

Và khi Jobs thuê những nhạc công, nghệ sỹ, nhà thơ và nhà sử học (để xây dựng Macintosh), ông ấy đã đặt mình trong những trải nghiệm mới và những cách nhìn mới về một vấn đề. Những ý tưởng sáng tạo nhất của Jobs là kết quả trực tiếp từ những trải nghiệm trong những hoàn cảnh địa lý cũng như giữa những con người được ông kết nối.

Phải chăng Steve Jobs nhìn mọi việc theo một cách khác? Đó là khả năng đặc biệt của Jobs? Bạn cũng có thể trở nên sáng tạo hơn nếu bạn luôn có suy nghĩ rằng não bộ của bạn sẽ chống lại từng suy nghĩ của bạn.

Để đạt được những trải nghiệm mới và lối suy nghĩ khác biệt về những vấn đề chung, bạn phải yêu cầu não bộ của bạn tiêu đốt năng lượng trong khi vai trò tự nhiên của nó là bảo tồn năng lượng càng nhiều càng tốt.

Đây không phải là một việc dễ dàng nhưng bằng cách bắt buộc bản thân bước ra khỏi vùng an toàn về thể chất lẫn tinh thần, bạn sẽ bắt đầu đốt cháy những khớp thần kinh, phát triển những bước nhảy để tạo ra những ý tưởng mới có khả năng thay đổi công ty và cuộc đời của bạn.

Đó là khi bạn đã có bắt đầu mở khóa Sáng Tạo của chính mình.

Theo VNR


Thứ Hai, 9 tháng 8, 2010

No creation-No change! Con đường thất bại của doanh nghiệp

Nếu một doanh nghiệp "No change"-Không thay đổi có nghĩa là doanh nghiệp đang đứng im trong dòng chảy của thời đại; một doanh nghiệp "No creation"-Không sáng tạo nghĩa là doanh nghiệp lạc hậu so với các doanh nghiệp khác và so với nhu cầu ngày càng cao của xã hội.

http://www.makeliterature.com/blog/wp-content/uploads/2009/02/famous-love-poems.jpg

Mà khi đã đứng im, không nắm bắt cơ hội đang vùn vụt trôi qua từng giờ, từng phút, khi đã lạc hậu thì doanh nghiệp không thể trụ vững và sẽ sớm bị đào thải khỏi thương trường khốc liệt.

Thay đổi và sáng tạo có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó sáng tạo là nền tảng, là cơ sở của sự thay đổi. Một khi có sáng tạo, mơí có sự thay đổi. Một doanh nghiệp sẽ đưa ra chiến lược đổi mới sản phẩm, thay đổi chiến lược kinh doanh dựa trên những ý tưởng, những sáng tạo về sản phẩm, về chiến lược kinh doanh đã được thẩm định. Ngược lại, thay đổi lại tạo cơ hội cho sáng tạo nảy sinh.

Trong quá trình thay đổi bộ mặt công ty, mỗi cá nhân, tập thể lại có những ý tưởng mới, những sáng tạo mới nảy sinh. Cũng như khi thay đổi mẫu mã sản phẩm, doanh nghiệp có thể sáng tạo ra chức năng mới cho sản phẩm. Bên cạnh những ý tưởng xuất phát ngẫu nhiên, tình cờ, chợt đến, còn có những ý tưởng đã manh nha tồn tại từ lâu nhưng chưa đề xuất, chưa bàn tới, thay vào đó trong quá trình thay đổi, lại thấy việc áp dụng những ý tưởng sáng tạo đó là hữu ích, là phụ hợp.

Như vậy thay đổi và sáng tạo có mối quan hệ chặt chẽ. Chúng tạo thành mối quan hệ thống nhất, liên kết, là "dầu bôi trơn" cho thành công của doanh nghiệp.

1. Change-Thay đổi

Trong nền kinh tế hội nhập, công việc kinh doanh càng trở nên khó khăn hơn do môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Điều đó đòi hỏi một công ty, một doanh nghiệp nếu muốn thành công phải hết sức linh hoạt và nhạy bén.

Nhưng thực tế phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam đều chưa có sự nhạy bén, linh hoạt trên thương trường. Vì sao? Vì họ ngại thay đổi, thậm chí là sợ thay đổi; vì họ khó thoát khỏi cái bóng của thành công ban đầu, khó quên được những thành công trong quá khứ mặc dù thành công đó không hề lập lại trong tương lai. Ngay cả khi một doanh nghiệp đã vạch ra hướng đi mới, hướng đi này lại sẽ giống một hướng đi đã có sẵn. Cũng như trà thì phải là trà chứ không thêm bớt một thứ gì nữa.

Cũng biết rằng đôi khi "cổ hủ", không thay đổi lại là giữ lại hình ảnh sản phẩm của mình, nhưng vô hình chung nó lại "bóp chết" chính sản phẩm đó. Lấy một ví dụ về 1 loại đồ uống, đó là Trà sữa Chân trâu Đài Loan. Tại sao sản phẩm này khi mới có mặt tại VIệt Nam lại có thể phát triển rầm rộ và thu hút mọi người, đặc biệt là giới trẻ đến thế? Vì đó là sự phá cách, sự thay đổi hoàn toàn diện mạo của thị trường trà. Trước kia, thị trường trà sen, trà búp, trà đắng (khổ qua) v.v...

Đó là những loại trà cổ truyền mà phần lớn dành cho đoạn thị trường ở lứa tuổi trung niên, lớn tuổi. Còn giới trẻ thì dường như vẫn quá xa lạ trong việc sử dụng các sản phẩm "trà" mặc dù trên thị trường lúc bấy giờ cũng có "Nestea", "Lipton",... nhưng những sản phẩm này cũng na ná như nhau, không có sự khác biệt đáng kể.

Và Trà sữa Chân trâu xuất hiện, không những có thêm vị sữa, có Chân trâu mà phong cách phục vụ tại chỗ, quầy bàn cũng nhanh chóng theo kiểu fastfood, đã thực sự tạo thành "cơn sốt" với giới trẻ. Mảng thị trường "trà" dành cho giới trẻ đã được khai quật mạnh mẽ và thành công nhờ sự thay đổi, sự nhạy bén với thị trường.

Vậy, để thay đổi thì một doanh nghiệp cần những gì?

- Hãy lắng nghe khách hàng chứ không phải lắng nghe chính bản thân doanh nghiệp. Hãy quyết định một cách chính xác xem khách hàng cần gì và họ cần như thế nào, từ đó đưa ra những phương án đáp ứng tốt nhất nhu cầu của họ. Muốn vậy, doanh nghiệp phải vượt qua được lịch sử, truyền thống và thành công của mình trong quá khứ. Câu nói "khách hàng là thượng đế" dù đã cũ nhưng không bao giờ thừa.

- Hãy cam kết thay đổi dù muốn hay không. Điều này đòi hỏi những người chủ doanh nghiệp phải có lòng quyết tâm và sự dũng cảm. Vì thường thì người ta luôn thỏa mãn với những gì ổn định, ngay cả khi "con tàu đang chìm xuống" và sự thay đổi dù có những khó khăn nhưng lại là cơ hội sống sót.

- Hãy nhận sự giúp đỡ từ bên ngoài để thay đổi chính bản thân doanh nghiệp. Những trợ giúp bên ngoài có nghĩa là nhờ vào những ý tưởng từ bên ngoài để áp dụng có chọn lọc cho doanh nghiệp mình.

Dù muốn hay không, nếu doanh nghiệp không thay đổi có nghĩa là chấp nhận từ bỏ cuộc chơi. Thay đổi là nhan tố quyết định ai là người trụ vững trên thương trường.

2. Creation-Sáng tạo

http://www.creationband.com/assets/logo_creation_reggae_band_globe_in_hands___black_01.jpg

Sáng tạo là khả năng tưởng tượng, dự đoán, phát hiện và thực hiện những ý tưởng nếu có ích. Nền kinh tế sáng tạo (Creative economy) là sự tiếp bước của nền kinh tế tri thức. Thực tế đã cho thấy một xã hội sáng tạo thực tế còn quan trọng cho sự phát triển hơn là tỷ lệ tái đầu tư. Do đó sáng tạo ngày càng không thể thiếu được trong quá trình điều hành quản lý, cũng như sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Sáng tạo ở đây có thể là sáng tạo về sản phẩm, về chiến lược kinh doanh, về tổ chức điều hành quản lý v.v...,

Đặc biệt chú trọng hơn hết là công tác thiết kế sản phẩm nhằm không chỉ thỏa mãn nhu cầu đang tăng mà còn chủ động tạo ra nhu cầu mới, khai thác triệt để các thành tựu của khoa học công nghệ, nâng cao hơn nữa năng suất.

Thực tế, những doanh nghiệp có bước nhảy vọt đều dựa vào nền tảng của sự sáng tạo. Có thể lấy Hàn Quốc và một trong những con chủ bài của nền kinh tế này là hãng Samsung làm ví dụ điển hình. Bản thân không phải là quê hương của cuộc cách mạng kỹ thuật số, nhưng Samsung đứng đầu thế giới hiện nay trong việc khai thác có hiệu quả các thành tựu mới nhất của cuộc cách mạng đó.

Bằng sự sáng tạo của mình, mỗi năm Samsung tung ra thị trường 100 mẫu mã điện thoại di động mới, trong khi đối thủ đáng kể của Samsung là Nokia-nơi sinh ra phát minh này-chỉ tạo ra được 20 mẫu mã mới. Nhờ đó, Samsung đã vươn lên thành một trong những nhà cung cấp điện thoại di động hàng đầu thế giới và lợi nhuật tăng gấp 20 lần trong vòng 5 năm.

Như vậy có thể thấy rằng: Thay đổi và sáng tạo là hai vấn đề mấu chốt, có tính quyết định cho sự thành công của doanh nghiệp. Doanh n ghiệp có trụ vững được trên thương trường hay không, đó là nhờ vào chiến lược C&C của chính doanh nghiệp.

Bí mật lớn nhất của thành công: chỉ số say mê

Có thể ví von rằng mỗi con người chúng ta như loài chim đại bàng dũng mãnh, sinh ra để thuộc về bầu trời. Tận sâu trong mỗi người là niềm say mê cháy bỏng mong muốn đạt được những ước mơ trong cuộc đời. Và câu chuyện con đại bàng kể rằng:

Ngày xưa… một người đàn ông nọ tìm thấy một quả trứng chim đại bàng, nhưng không biết nên đã đặt nó vào ổ gà mái đang trong thời kỳ ấp trứng. Chim đại bàng con cùng nở ra và lớn lên với đàn gà con. Từ nhỏ cho đến lớn, con đại bàng con đều làm những việc mà những con gà thực thụ làm và luôn nghĩ mình là con gà không hơn không kém: nó đào đất tìm giun và côn trùng, kêu cục tác, cũng vỗ cánh và bay được một ít trên không trung. Năm tháng trôi qua, con “đại bàng-gà” cũng đã trưởng thành.

Một ngày đẹp trời nọ, nó nhìn lên bầu trời và thấy một con chim rất đẹp, dũng mãnh lướt đi trong gió. Nó ngước nhìn con chim đang bay đầy vẻ kính sợ, và hỏi những con gà quanh đó “Ai đấy?” “Đó là chim đại bàng, chúa tể của các loài chim.”, một trong những con gà trả lời. “Ông ấy thuộc về bầu trời, còn chúng ta thuộc về mặt đất – vì chúng ta là gà.”

Và như thế, con chim đại bàng đã cam chịu với số phận của mình, nó đã sống và chết như một con gà, vì nó luôn nghĩ mình chỉ là một con gà mà thôi. Thiếu sót lớn nhất trong cuộc đời con “đại bàng-gà” này chính là niềm say mê khám phá bản thân. Nó chưa bao giờ mơ ước được bay và chưa bao giờ học bay để có thể tự tin bay vút lên trời xanh như tổ tiên ngàn đời của mình.

PQ (Passion Quotient) là gì?

PQ là chỉ số chỉ sự say mê của mỗi người dành cho việc anh ta làm, gọi tắt là chỉ số say mê (PQ). Có người đã ví von rằng: “Chỉ số IQ giống như một đoạn mạch ADN rất vững chắc và rất khó để cải thiện. Còn chỉ số PQ là chất lửa trong mỗi con người, chúng ta hoàn toàn có thể điều chỉnh được ngọn lửa đó.”

Chỉ số PQ của con người không thể đo lường một cách chính xác. PQ không thể hiển thị dưới dạng con số hay thống kê như IQ, nó chỉ mang tính ước đoán, hàm ý và tượng trưng. Người có chỉ số PQ cao là một tài sản quý.

Trong công việc, những nhân viên làm việc với lòng say mê cao là những người được các sếp quý trọng. Ngọn lửa say mê đến từ định hướng đúng trong công việc, chọn nghề phù hợp với năng lực và sở trường, vào trí thông minh của mỗi người. Những người có chỉ số PQ cao bao giờ cũng là tài sản quý của một cơ quan, tổ chức. Những phẩm chất thường thấy ở họ là:

  • Yêu thích công việc mình làm.
  • Luôn toàn tâm toàn ý hoàn thành công việc đạt chất lượng cao.
  • Thất bại chỉ kích thích họ suy nghĩ thêm thấu đáo, chứ không làm họ nản chí.
  • Họ làm việc không kể giờ giấc, hay ít ra cũng thường xuyên suy nghĩ về công việc ngay cả trong lúc nghỉ ngơi, nên họ thường tìm ra được những giải pháp độc đáo và sáng tạo.
  • Họ luôn luôn nghĩ đến việc sẽ làm tiếp theo và tìm cách chạy đua với thời gian.

Virender Kapoor, tác giả quyển sách "The Greatest Secret of Success: Your Passion Quotient" (Bí mật lớn nhất của thành công: chỉ số say mê) cho rằng "Chất lửa trong con người, hay chính là chỉ số say mê, đã đóng góp rất nhiều cho những thành tựu kỳ diệu của nhà khoa học thiên tài Albert Einstein hơn cả chỉ số IQ của ông."


GiangBLOG


Thứ Hai, 2 tháng 8, 2010

Triết lý kinh doanh của gã ăn mày

Câu chuyện bắt đầu như thế này.

Tôi xách túi đồ nhãn hiệu Levi's ra khỏi Plaza rồi đứng lại ở cửa chờ bạn. Một tay ăn mày chuyên nghiệp phát hiện ra tôi, sán tới đứng trước mặt. Câu chuyện của tôi chỉ có thế thôi. Thế nhưng tay ăn mày đã dạy tôi một bài học kinh tế còn sâu sắc hơn một khoá học tại chức kinh tế ở trường. Tôi kể câu chuyện này chính bởi ý nguyện của tay ăn mày đó.


http://www.acro.vn/Upload/Tin_tuc/Suy_ngam/An_may_cung_can_tri_thuc.jpg



- Xin anh... cho tôi ít tiền đi! - Tôi đứng đó chả có việc gì nên tiện tay vứt cho hắn đồng tiền xu, rồi bắt chuyện cùng nhau.

Ăn mày rất thích kể lể.

- Tôi chỉ ăn mày quanh khu mua sắm này thôi, anh biết không? Tôi chỉ liếc một phát là thấy anh ngay. Đi mua Levi's ở Plaza chắc chắn nhiều tiền...

- Hả? Ông cũng hiểu đời phết nhỉ! - Tôi ngạc nhiên.

- Làm ăn mày, cũng phải ăn mày cho nó có khoa học. - Ông ta bắt đầu mở máy.

Tôi ngẫm nghĩ một lát, thấy thú vị bèn hỏi:

- Thế nào là ăn mày một cách khoa học?

Tôi nhìn kỹ ông ta, đầu tóc rối bù, quần áo rách nát, tay gầy giơ xương, nhưng lại sạch sẽ.

Ông ta giảng giải:

- Ai chẳng sợ và ghét ăn mày, nhưng tôi tin anh không ghét tôi, tôi đoan chắc điều đó. Đấy là điểm tôi khác biệt với những thằng ăn mày khác.

Tôi gật đầu đồng ý, đúng là tôi không ghét ông ta, nên tôi đang nói chuyện với ông ta đấy thôi.

- Tôi biết phân tích SWOT, những ưu thế, bất lợi, những cơ hội và nguy cơ. Đối mặt với những thằng ăn mày là đối thủ cạnh tranh của tôi, ưu thế (Strengths) của tôi là tôi không làm người ta phản cảm, lánh sợ. Cơ hội (Opportunities) và nguy cơ (Threats) thì chỉ là những yếu tố điều kiện bên ngoài thuộc về hoàn cảnh, có thể là dân số ở đây đông hay vắng, thành phố có quyết định chỉnh trang đô thị, dẹp hè phố chăng...

- ...???

- Tôi đã từng tính toán rất cụ tỉ (cụ thể và tỉ mỉ) rằng, khu vực thương mại này người qua lại đông, mỗi ngày khoảng mười nghìn người, nghèo thì nhiều lắm, nhưng người giàu còn nhiều hơn. Trên phương diện lý luận thì giả như mỗi ngày tôi xin được mỗi người một đồng xu một nghìn đồng, thì mỗi tháng thu nhập của tôi đã được ba trăm triệu đồng . Nhưng thực tế thì đâu phải ai cũng cho ăn mày tiền, mà một ngày làm sao tôi đi xin được mười nghìn lượt người. Vì thế, tôi phải phân tích, ai là khách hàng mục tiêu của tôi, đâu là khách hàng tiềm năng của tôi.

Ông ta lấy giọng nói tiếp:

- Ở khu Plaza này thì khách hàng mục tiêu của tôi chiếm khoảng 30% số lượng người mua sắm, tỉ lệ thành công khoảng 70%. Lượng khách hàng tiềm năng chiếm khoảng 20%, tỉ lệ thành công trên đối tượng này khoảng 50%. Còn lại 50% số người, tôi chọn cách là bỏ qua họ, bởi tôi không có đủ thời gian để tìm vận may của mình với họ, tức là xin tiền họ.

- Thế ông định nghĩa thế nào về khách hàng của ông? - Tôi căn vặn.

- Trước tiên, khách hàng mục tiêu nhé. Thì những nam thanh niên trẻ như anh đấy, có thu nhập, nên tiêu tiền không lưỡng lự. Ngoài ra các đôi tình nhân cũng nằm trong đối tượng khách hàng mục tiêu của tôi, họ không thể mất mặt trước bạn khác phái, vì thế đành phải ra tay hào phóng. Rồi tôi chọn các cô gái xinh đẹp đi một mình là khách hàng tiềm năng, bởi họ rất sợ bị lẽo đẽo theo, chắc chắn họ chọn cách bỏ tiền ra cho rảnh nợ. Hai đối tượng này đều thuộc tầm tuổi 20-30. Nếu tuổi khách hàng nhỏ quá, họ không có thu nhập, mà tuổi già hơn, thì họ có thể đã có gia đình, tiền bạc bị vợ cầm hết rồi. Những ông chồng đó biết đâu có khi đang âm thầm tiếc hận rằng không thể ngửa tay ra xin tiền của tôi ấy chứ!

- Thế thì mỗi ngày ông xin được bao nhiêu tiền?

- Thứ hai đến thứ sáu, sẽ kém một chút, khoảng hai trăm nghìn. Cuối tuần thậm chí có thể 4-500 nghìn.

- Hả? Nhiều vậy sao?

Thấy tôi nghi ngờ, ông ta tính cho tôi thấy:

- Tôi cũng khác gì anh, tôi cũng làm việc tám giờ vàng ngọc. Buổi sáng từ 11h đến tối 7h, cuối tuần vẫn đi làm như thường. Mỗi lần ăn mày một người tôi mất khoảng 5 giây, trừ đi thời gian tôi đi lại, di chuyển giữa các mục tiêu, thường một phút tôi xin được một lần được một đồng xu 1 nghìn, 8 tiếng tôi xin được 480 đồng một nghìn, rồi tính với tỉ lệ thành công 60% [(70%+50%)÷2] thì tôi được khoảng 300 nghìn.

Chiến lược ăn mày của tôi là dứt khoát không đeo bám khách chạy dọc phố. Nếu xin mà họ không cho, tôi dứt khoát không bám theo họ. Bởi nếu họ cho tiền thì đã cho ngay rồi, nếu họ cho vì bị đeo bám lâu, thì tỉ lệ thành công cũng nhỏ. Tôi không thể mang thời gian ăn mày có giới hạn của tôi để đi lãng phí trên những người khách này, trong khi tôi có thể xoay ngay sang mục tiêu bên cạnh.

Trời, tay ăn mày này có đầu óc quá đi, phân tích như thể giám đốc kinh doanh hoặc giám đốc tiếp thị vậy.

- Ông nói tiếp đi! - Tôi hào hứng.

- Có người bảo ăn mày có số may hay xui, tôi không nghĩ thế. Lấy ví dụ cho anh nhé, nếu có một thanh niên đẹp trai và một phụ nữ xinh đẹp đứng trước cửa shop đồ lót mỹ phẩm, thì anh sẽ chọn ai để ăn mày?

Tôi ngẫm nghĩ rồi bảo, tôi không biết.

- Anh nên đi đến xin tiền anh thanh niên kia. Vì đứng bên anh ta là một phụ nữ đẹp, anh ta chẳng lẽ lại không cho ăn mày tiền. Nhưng nếu anh đi xin cô gái đẹp, cô ta sẽ giả vờ là ghê sợ anh rồi lánh xa anh.

Thôi cho anh một ví dụ nữa: Hôm nọ đứng ở cửa siêu thị BigC có một cô gái trẻ tay cầm túi đồ vừa mua từ siêu thị, một đôi nam nữ yêu nhau đang đứng ăn kem, và một anh chàng đóng bộ công chức chỉnh tề, tay xách túi đựng máy tính xách tay. Tôi chỉ nhìn họ ba giây, sẽ không ngần ngừ bước thẳng tới mặt cô gái trẻ xin tiền, cô gái cho tôi hẳn hai đồng xu, nhưng ngạc nhiên hỏi tôi tại sao chỉ xin tiền có mỗi cô ta. Tôi trả lời rằng, cái đôi tình nhân kia đang ăn, họ không tiện rút ví ra cho tiền, anh kia trông có vẻ lắm tiền, trông như sếp nhưng vì thế trên người họ thường không có sẵn tiền lẻ. Còn cô vừa mua sắm ở siêu thị ra, cô tất còn ít tiền thừa, tiền lẻ.

Chí lý, tôi càng nghe tay ăn mày nói càng tỉnh cả người ra.

- Cho nên tôi bảo rồi, tri thức quyết định tất cả!

Tôi nghe sếp tôi nói bao lần câu này, nhưng đây là lần đầu tôi nghe một thằng ăn mày nói câu này.

- Ăn mày cũng phải mang tri thức ra mà ăn mày. Chứ ngày ngày nằm ệch ra ở xó chợ, cầu thang lên đường vượt giao lộ, xin ai cho được tiền? Những người đi qua giao lộ, chạy qua cổng chợ đều vội vàng hoặc cồng kềnh, ai ra đấy mà chơi bao giờ, ra đấy xin chỉ mệt người. Phải trang bị tri thức cho chính mình, học kiến thức mới làm người ta thông minh lên, những người thông minh sẽ không bao giờ ngừng học hỏi kiến thức mới. Thế kỷ 21 rồi, bây giờ người ta cần gì, có phải là cần nhân tài không?

Có lần, có một người cho tôi hẳn 50 nghìn, nhờ tôi đứng dưới cửa sổ gào: "Nhung ơi, anh yêu em", gào 100 lần. Tôi tính ra gọi một tiếng mất 5 giây, thời gian cũng tương tự như tôi đi ăn mày một lần, nhưng lợi nhuận đạt được chỉ 500 đồng, còn kém đi ăn mày, thế là tôi từ chối.

Ở đây, nói chung một tay ăn mày một tháng có thể đi xin được một nghìn hoặc tám trăm lần. Người nào may mắn thì cùng lắm đi xin được khoảng hai nghìn lần. Dân số ở đây khoảng ba triệu, ăn mày độ chục anh, tức là tôi cứ khoảng mười nghìn người dân mới ăn mày một người. Như thế thu nhập của tôi ổn định, về cơ bản là cho dù kinh tế thế giới đi lên hay đi xuống, tình hình xin tiền của tôi vẫn ổn định, không biến động nhiều.

Trời, tôi phục tay ăn mày này quá!

- Tôi thường nói tôi là một thằng ăn mày vui vẻ. Những thằng ăn mày khác thường vui vì xin được nhiều tiền. Tôi thường bảo chúng nó là, chúng mày nhầm rồi. Vì vui vẻ thì mới xin được nhiều tiền chứ.

Quá chuẩn!



- Ăn mày là nghề nghiệp của tôi, phải hiểu được niềm vui do công việc của mình mang lại. Lúc trời mưa ít người ra phố, những thằng ăn mày khác đều ủ rũ oán trách hoặc ngủ. Đừng nên như thế, hãy tranh thủ mà cảm nhận vẻ đẹp của thành phố. Tối về tôi dắt vợ và con đi chơi ngắm trời đêm, nhà ba người nói cười vui vẻ, có lúc đi đường gặp đồng nghiệp, tôi có khi cũng vứt cho họ một đồng xu, để thấy họ vui vẻ đi, nhìn họ như nhìn thấy chính mình.

- Ối ông cũng có vợ con?

- Vợ tôi ở nhà làm bà nội trợ, con tôi đi học. Tôi vay tiền ngân hàng mua một căn nhà nhỏ ở ngoại thành, trả nợ dần trong mười năm, vẫn còn sáu năm nữa mới trả hết. Tôi phải nỗ lực kiếm tiền, con tôi còn phải học lên đại học, tôi sẽ cho nó học Quản trị kinh doanh, Marketing, để con tôi có thể trở thành một thằng ăn mày xuất sắc hơn bố nó.

Tôi buột miệng:

- Ông ơi, ông có thu nhận tôi làm đệ tử không?

Lubagazj


GiangBLOG


Thứ Bảy, 3 tháng 7, 2010

IBM và mô hình doanh nghiệp mới

Theo các nhà phân tích, IBM là ví dụ sáng chói về một loại hình doanh nghiệp mới: tập đoàn toàn cầu thời hậu đa quốc gia (the postmutinational global corporation).

http://vietnambranding.com/news/img4/1221528989_080322-IBM1.jpg

Ngay từ ngày đầu thành lập, năm 1924, tập đoàn IBM (Mỹ) đã muốn bán sản phẩm ra khắp thế giới nên mới lấy cái tên đầy khát vọng là Tập đoàn Máy Kinh doanh Quốc tế (International Business Machines Corporation). Và trong nhiều thập niên qua, IBM là một công ty đa quốc gia có gốc rễ sâu ở các thị trường ngoài nước Mỹ, chủ yếu là ở các nước phát triển tại châu Âu và Nhật Bản. Ngày nay, chiến lược toàn cầu đã giúp tập đoàn này hoạt động ổn định trong thời suy thoái kinh tế.

Ổn định trong suy thoái

Trọng tâm thời hậu đa quốc gia của các tập đoàn Mỹ đã chuyển dịch ra ngoài nước Mỹ, không chỉ về phương diện doanh số mà cả về chiến lược lẫn các hoạt động chính. IBM chẳng hạn, làm ra hai phần ba doanh thu ở các thị trường nước ngoài. Theo báo cáo của tập đoàn, doanh số tại các thị trường mới và tăng trưởng mạnh như Trung Quốc, Ấn Độ, cả ở những thị trường nhỏ như Việt Nam, Cộng hòa Czech và Philippines, đã tăng 20% trong quý đầu năm nay. Chiến lược toàn cầu linh hoạt của IBM đã giúp tập đoàn duy trì được lợi nhuận khi các doanh nghiệp khác bị khủng hoảng. Nhờ chú trọng nhiều vào phần mềm và dịch vụ rồi chuyển dần ra khỏi việc sản xuất phần cứng, kết quả kinh doanh của IBM tránh được sự lên xuống theo chu kỳ mà các công ty công nghệ khác gặp phải.

Tuy nhiên, điều đó cũng có nghĩa là việc kinh doanh của IBM không thể tăng nhanh đột ngột như một số tập đoàn khác, Intel chẳng hạn. Khi nền kinh tế bắt đầu hồi phục, quý 1 năm nay, Intel cho biết doanh số đạt 22,86 tỉ USD, thu nhập ròng tăng 13%, lên mức 2,6 tỉ USD, tương đương mỗi cổ phiếu có lãi 1,97 USD.

Trong vài năm qua, xu thế vươn ra thị trường quốc tế đã trở nên rõ ràng trong các công ty công nghệ hàng đầu của Mỹ như Hewlett-Packard (HP), Intel, Cisco, Oracle, Apple và Microsoft. Ngay cả Google, một công ty trẻ tuổi và đa ngành - vừa hoạt động công nghệ vừa kiếm tiền từ việc bán quảng cáo, tuần trước cũng nói rằng hoạt động kinh doanh ở nước ngoài tăng vọt đã mang về cho công ty 53% doanh số.

IBM là ví dụ sáng chói về một loại hình doanh nghiệp mới: tập đoàn toàn cầu thời hậu đa quốc gia

Lợi thế của công nghệ mới

Trong thời suy thoái, các công ty công nghệ tỏ ra vững vàng hơn doanh nghiệp các ngành khác bởi vì họ sản xuất ra những công cụ có thể hoạt động trên toàn cầu một cách dễ dàng - đó là các mạng viễn thông tốc độ cao, các phần mềm thông minh và các loại máy tính mạnh có giá cả hợp lý. Đây cũng là ngành dễ điều chỉnh để khai thác những thuận lợi của công cuộc toàn cầu hóa.

Truyền thông Internet có nghĩa là người lao động lành nghề ở khắp nơi trên thế giới đều có thể là công nhân tiềm năng, chi phí sản xuất có thể sẽ hạ xuống. Phần mềm máy tính, về bản chất, là một loại sản phẩm dễ dàng được phân phối rộng rãi trên khắp thế giới. Phần cứng máy tính cũng là loại sản phẩm “nhẹ cân” so với giá trị của chúng. Máy vi tính và các linh kiện của nó có thể được gửi bằng đường hàng không đến bất kỳ nơi nào có nhu cầu. Intel chẳng hạn, sản xuất 65% sản phẩm ở Mỹ nhưng 82% được tiêu thụ ngoài nước Mỹ.

IBM sở dĩ vươn lên hàng đầu của mô hình tập đoàn thời hậu đa quốc gia, theo các nhà phân tích, là nhờ đã toàn cầu hóa hoạt động của mình dựa vào các lợi thế nói trên của sản phẩm công nghệ. Mô hình kinh doanh đa quốc gia kiểu cũ kết hợp việc kiểm soát chặt chẽ từ đại bản doanh của tập đoàn tại Mỹ tới hàng loạt công ty riêng rẽ ở nước ngoài, mỗi công ty ở một thị trường khác nhau. Nói chung, việc kinh doanh ở mỗi nước do bộ máy nhân sự ở nước đó thực hiện, bao gồm cả nhân viên tài chính, kế toán, nhân lực, mua sắm và các hoạt động khác.

Thay đổi mô hình

Nhưng trong vài năm qua, tổng giám đốc điều hành của IBM, ông Samuel J. Palmisano, đã thay đổi mô hình đó bằng cách lập ra những trung tâm chuyên môn toàn cầu nằm ở những quốc gia khác nhau nhưng có trách nhiệm với toàn tập đoàn và giảm dần vai trò kiểm soát của đại bản doanh IBM tại Mỹ. Ví dụ, trung tâm mua sắm toàn cầu của IBM đặt tại Trung Quốc, các nhiệm vụ về nhân lực như xử lý các báo cáo về chi tiêu được thực hiện ở Philippines còn việc xử lý tài chính - hậu cần được tiến hành tại Brazil. Sản xuất toàn cầu cũng được tổ chức tốt. Phần lớn những gì IBM đã làm đều nằm trong lĩnh vực phần mềm và dịch vụ - hai lĩnh vực này hợp lại đem về cho tập đoàn 80% doanh số. Đây cũng là hai lĩnh vực liên quan tới việc tổ chức công việc của hàng trăm ngàn nhân viên lành nghề.

Sự bành trướng của IBM ở Ấn Độ là một ví dụ điển hình cho xu hướng đó. IBM đẩy mạnh hoạt động ở Ấn Độ một phần nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường địa phương, phần khác nhằm khai thác nguồn kỹ sư đông đúc và giá rẻ của nước này - những người sẽ phát triển sản phẩm phần mềm và xử lý việc bảo trì cho các dự án của IBM trên toàn cầu.

Nhưng Ấn Độ cũng chỉ là một trong số những nguồn nhân lực phần mềm của IBM. Ngày nay tập đoàn IBM có tới 86 trung tâm phát triển phần mềm trên khắp thế giới, tăng từ con số 25 trung tâm năm 2001. Năm ngoái, IBM đã mở những trung tâm đặc biệt chuyên về phần mềm thông tin doanh nghiệp và phân tích hoạt động trong các lĩnh vực tài chính, năng lượng, giao thông vận tải, quản lý nguồn nước và chăm sóc y tế… đặt ở những địa điểm rất xa nhau như New York, Berline, Bắc Kinh, Dublin, Melbourne và Đài Bắc.

Theo các nhà phân tích, công nghệ hiện đại cho phép phân bổ các mảng công việc ra khắp thế giới, tìm kiếm tài năng và hạ chi phí sản xuất. “Và IBM đặc biệt xông xáo trong việc chuyển sang mô hình sản xuất và phân phối toàn cầu này” - giáo sư David B. Yoffie, trường Kinh doanh Harvard (Mỹ) nhận xét.

Thách thức về quản lý

Nhưng mô hình toàn cầu hóa kiểu mới mà IBM đang theo đuổi cũng có những khó khăn cho công tác quản lý. Một sự thay đổi mạnh trong văn hóa công ty sẽ gây rối loạn cho hàng ngàn công nhân. Để bắt kịp những sự thay đổi về nhu cầu tài năng và để giảm giá thành chẳng hạn, IBM phải thực hiện một chiến lược “thất đức”: thường xuyên tuyển dụng nhân viên cho loại công việc này và sa thải nhân viên ở loại công việc khác. Trong mấy năm gần đây, IBM đã dành ra mỗi năm khoảng 400 triệu USD để thanh toán tiền trợ cấp thôi việc và các chi phí khác để cắt giảm mỗi năm khoảng 8.000 nhân viên.

Phần lớn sự sa thải này xảy ra ở các nền kinh tế phát triển và có thu nhập cao như Mỹ. Tại Mỹ, đến cuối năm 2009, IBM vẫn sử dụng khoảng 105.000 nhân viên trong tổng số 339.000 nhân viên của tập đoàn trên toàn cầu, tăng 21% so với 5 năm về trước. Nhưng lực lượng lao động của IBM tại Mỹ đã giảm hơn 10.000 người kể từ cuối năm 2008.

Doanhnhan


Thứ Năm, 1 tháng 7, 2010

Những công ty làm thay đổi thế giới

Đó không chỉ là những công ty của Mỹ như McDonald’s, Ford, Microsoft, Apple mà còn là thương hiệu đến từ nhiều nước khác trên thế giới với những cái tên quen thuộc như Sony, Toyota …

http://staynalive.com/files/2010/02/change-the-world.jpg

Chúng ta sống và làm việc trong thế giới đó, chúng ta ăn, mặc, ở, chúng ta di chuyển trên những chiếc xe hơi, tàu hỏa, máy bay do thế giới đó sản xuất ra và giao tiếp liên lục địa một cách nhanh chóng nhờ các mạng lưới truyền thông điện tử cực kỳ hữu hiệu mà thế giới đó mang lại.

Nói tóm lại, mọi nhu cầu về cuộc sống, sinh hoạt, học tập, giải trí và làm việc hàng ngày của chúng ta đều lệ thuộc gần như hoàn toàn vào thế giới của các công ty danh tiếng cùng hàng triệu loại sản phẩm và dịch vụ mà họ cung cấp.

Dưới đây là những tập đoàn, doanh nghiệp được coi là đã góp phần đáng kể làm thay đổi thế giới được xếp theo tiêu chí doanh thu, hiệu quả, sức mạnh thương hiệu...

1. Microsoft - Ngôi nhà không thể thiếu cửa sổ, cuộc sống không thể thiếu… Windows.

http://www.vnbrand.net/images/news/thong-tin-thuong-hieu/microsoft-trong-khung-hoang.jpg

- Người sáng lập William H. Gates và Paul Allen đứng vị trí thứ 49 trong nền kinh tế Mỹ trong 500 doanh nghiệp do Forbes bình chọn năm 2007.

- Microsoft thành lập năm 1975, với nét đặc trưng là tạo ra những hệ điều hành được sử dụng bởi gần như toàn bộ các máy tính cá nhân trên khắp thế giới.

- Sản phẩm chính: Phần mềm máy tính và các dịch vụ Internet. Năm 2007, doanh thu 44,28 tỷ đôla, đạt lợi nhuận 12,6 tỷ đôla, với 79.000 nhân viên.

Câu chuyện bắt đầu vào năm 1975, Bill Gates và Paul Allen chuyển đổi ngôn ngữ lập trình của loại máy tính lớn đời đầu thành một loại ngôn ngữ có thể được sử dụng trên chiếc máy tính cá nhân đầu tiên. Công ty mà họ đã đặt tên bằng cách ghép hai từ đầu của “microcomputers” và “software” - đã thành công ngoài sức tưởng tượng.

Lợi nhuận năm đầu tiên chỉ là 16.000 đôla, nhưng đến năm thứ năm thì nhảy vọt lên đến 7,5 triệu đôla và mở rộng kinh doanh ra toàn cầu. Năm 1985, công ty này đã thu về gần 150 triệu đôla lợi nhận. Sau đó, Microsoft được cổ phần hóa trong khi vẫn duy trì mức lợi nhuận đáng kinh ngạc 25% trên doanh thu bán hàng. Bill Gates đoạt danh hiệu tỷ phú trẻ tuổi nhất nước Mỹ khi đó và người giàu nhất thế giới sau này.

2. Tập đoàn AT&T -Phép màu của Thế kỷ 19

http://techtribenews.files.wordpress.com/2009/06/att-logo.jpg

- Người sáng lập Alexander Graham Bell, Gardiner Hubbard và Thomas Sanders, đứng vị trí thứ 27 trong nền kinh tế Mỹ do Forbes xếp hạng năm 2007.

- AT&T thành lập năm 1877 và trở thành nhà tiên phong trong cuộc cách mạng ngành truyền thông với sản phẩm chính, mạng hữu tuyến, vô tuyến, Internet, với doanh thu 63 tỷ đôla, lợi nhuận 7,36 tỷ đôla năm 2007. Tổng số nhân viên 309.000 người.

Nếu có phép lạ nào đó giúp con người có thể nghe được tiếng nói của nhau từ những khoảng cách vài trăm mét đến vài chục nghìn km thì đó chính là “phép lạ” mà AT&T, cùng với Graham Bell, người khai sinh ra công ty này, đã mang đến cho nhân loại. Với hơn 80 triệu khách hàng tại Mỹ, AT&T vẫn đứng vững ở ngôi vị độc tôn trong lĩnh vực kinh doanh của mình.

3. Hãng ôtô Ford: Nhân loại đi nhanh hơn và xa hơn

http://hiephoioto.com/userfiles/image/1190909811-ford-logo.jpg

- Người sáng lập Henry Ford. Tập đoàn này đứng vị trí thứ 7 trong bảng xếp hạng năm 2007 và được coi là nhà cách mạng trong hoạt động sản xuất hàng loạt các sản phẩm chính như xe hơi, xe tải, thiết vị vận tải... Năm 2007, hãng đạt doanh thu 160 tỷ đôla. Tổng số nhân viên 245.000 người.

Nếu AT&T từng tạo ra “phép màu” giúp đôi tai nhân loại trở nên “thính” hơn trước những khoảng cách tưởng như vô tận thì Ford Motors đã biến ước mơ của con người về “đôi hài vạn dặm” trở thành sự thật. Mọi khoảng cách về địa lý và thời gian đều bị rút ngắn bởi những ý tưởng “thay đổi cả thế giới” của Ford.

4. Apple - Quả táo khuyết khiến cả hai nửa thế giới thèm muốn.

http://lienket247.com/JL/images/lk247_news/logo-apple.jpg

- Người sáng lập Steve Jobs, Steve Wozniak. Tập đoàn này đứng vị trí 121 trong bảng xếp hạng năm 2007.

- Sản phẩm chính gồm máy tính cá nhân, thiết bị ngoại vi và các thiết bị truyền thông đa phương tiện.

- Doanh thu năm 2007 19,32 tỷ đôla và lợi nhuận 1,99 tỷ đôla. Số nhân viên 20.000 người.

Triết lý kinh doanh của Apple là: Biến cái phức tạp thành đơn giản, nâng cái tầm thường lên đỉnh cao nghệ thuật, bán thiết bị kỹ thuật cao với giá thấp, làm cả thế giới mất ăn mất ngủ vì chờ đợi. Người ta không mấy xa lạ với chiêu bài của Apple như thôi thúc nhân viên trốn việc để… xếp hàng giành giật quyền sở hữu một sản phẩm nằm gọn trong lòng bàn tay mới ra lò. Còn nhiều điều hơn thế nữa được đưa ra từ tài năng thiên phú của người đàn ông tên có cái tên bình dị Steve Jobs và tinh thần sáng tạo không ngừng của một tập đoàn có logo hình quả táo khuyết.

5. McDonald’s... và kể từ đó nhân loại ăn nhanh hơn.

http://uberconservative.files.wordpress.com/2008/09/ap_mcdonalds_food_070806_ms.jpg

- Người sáng lập Ray Kroc. Năm 2007, McDonald’s đứng vị trí thứ 108 trong bảng xếp hạng của Forbes. Tập đoàn này đã khởi xướng và vẫn đang dẫn đầu cuộc cách mạng thức ăn nhanh trên toàn cầu với sản phẩm chính là hamburger, gà rán, khoai tây chiên và thức uống.

- Doanh thu năm 2007 của hãng đạt 21,59 tỷ đôla và lợi nhuận 3,54 tỷ đôla. Tổng số nhân viên 465.000 người.

Hầu hết người dân Mỹ không thể nhớ được tự bao giờ khu phố của họ không có một nhà hàng thức ăn nhanh, cho đến một ngày loại nhà hàng thông dụng này có mặt ở khắp mọi ngõ ngách, không những ở Mỹ mà trên khắp thế giới.

6. America Online - Trực tuyến đến từng căn hộ.

http://nuzumcl.files.wordpress.com/2009/03/aol-logo.jpg

Người sáng lập Steven M. Case. Tuy không được Forbes xếp hạng năm 2007 song tập đoàn này được đánh giá là những doanh nghiệp danh tiếng góp phần cải tạo thế giới của những thập kỷ trước. Lĩnh vực kinh doanh chính là đường truyền truy cập Internet, nội dung trực tuyến và các sản phẩm phần mềm liên quan.

Steve Case từng hứng chịu sự chế giễu từ những người xung quanh từ năm 1980, khi chàng sinh viên vừa tốt nghiệp đại học tuyên bố một cách đầy tự tin rằng truyền hình cáp sẽ là phương tiện truyền tải thông tin hàng đầu trong tương lai. Ông bị nhiều công ty trong ngành này từ chối thẳng thừng khi gửi đơn xin việc, trong đó có cả kênh truyền hình mới ra đời HBO. Sự thật là Case đã không thành công cho đến khi ông có cái nhìn thấu đáo hơn về công nghệ và người tiêu dùng trong những năm tháng làm việc bán thời gian ở các cửa hàng Procter & Gamble và Pizza Hut.

7. Hãng chuyển phát nhanh FedEx: Bưu phẩm đi khắp thế giới “ngày hôm sau”. Người sáng lập Frederick Wallace Smith.

http://luciebartlett.files.wordpress.com/2009/03/fedex-fleet.jpg

- Năm 2007, FedEx đứng vị trí thứ 68 trong bảng xếp hạng. Doanh nghiệp này được đánh giá là đã hình thành nên nền công nghiệp vận chuyển của thế hệ mới. Doanh thu của hãng năm 2007 đạt 32,29 tỷ đôla và đạt lợi nhuận 1,8 tỷ đôla. Số nhân viên là 141.000 người.

Thông điệp mà FedEx đưa ra là: Bạn gởi một tấm thiệp chúc mừng đến một người bạn thân đang ở cách bạn 18.000 km và người ấy nhận được tấm thiệp của bạn ngay vào ngày hôm sau. Ai có thể giúp bạn làm được điều đó? Đó chính là Fedex.

8. Wal-Mart - Giàu nhất nhờ bán hàng rẻ nhất. Người sáng lập Sam Walton. Tập đoàn này đứng vị trí số một trong nền kinh tế Mỹ năm 2007. Hãng đã sử dụng các bước cải tiến trong hoạt động kinh doanh bán lẻ vào địa vị thống trị toàn cầu. Sản phẩm chính của Wal-Mart là tơ lụa, hàng gia dụng, hàng điện tử, tạp hóa. Doanh thu của hãng năm 2007 là 351,14 tỷ đôla và đạt lợi nhuận 11,28 tỷ đôla. Số nhân viên 1,14 triệu người.

9. Tập đoàn Toyota: Nhà cách mạng hàng đầu trong ngành sản xuất xe hơi ở kỷ nguyên toàn cầu hóa: Người sáng lập Kiichiro Toyoda. Tập đoàn này được đánh giá là đã thực hiện cuộc cách mạng về sản xuất sản xe ôtô trong thời đại toàn cầu hóa.

http://taichinh.saga.vn/PCMS_Gallery/PhuongTrang/Cty_Logo/Toyota.jpg

- Sản phẩm chính: Xe hơi gia đình, xe thể thao, xe tải, thiết bị công nghiệp. Tháng 3/2008, Toyota đạt doanh thu 245,6 tỷ đôla Mỹ và đạt 16,05 tỷ đôla lợi nhuận.

- Tổng số nhân viên 299.394 người.

Cùng với việc nắm một nửa quyền sở hữu Hãng Daihatsu, Toyota trở thành nhà sản xuất ôtô có lượng xe xuất xưởng lớn nhất thế giới vào cuối quý I/2007. Đây là một tập đoàn công nghiệp khổng lồ với doanh số hàng năm vượt hơn 100 tỷ đôla từ các hoạt động sản xuất ôtô, động cơ, thiết bị công nghiệp, nhà đúc sẵn... Các dòng xe hơi gia đình và xe thể thao của Toyota với các nhãn hiệu Lexus, Camry, Corona, Land Cruiser… là những nhãn hiệu hàng đầu luôn làm các đối thủ vị nể và người tiêu dùng ngày càng ưa chuộng.

10. Sony: Walkman - Bồng bềnh trên từng bước đi:

http://digitalbangla.files.wordpress.com/2009/09/sony-walkman-nw-s700.jpg

- Nhà sáng lập Ibuka Masaru và Morita Akio. Tập đoàn này được đánh giá là thay đổi thị trường hàng điện tử dân dụng trên toàn cầu với các sản phẩm chính là thiết bị điện tử, phim ảnh, chương trình TV, thu âm nhạc. Doanh thu năm 2007 đạt 63.082 tỷ đôla.

Ba thập kỷ trước, những người Mỹ ưa chuộng đồ dùng công nghệ cao nếu muốn có một chiếc TV hiện đại sẽ luôn chọn nhãn hiệu Sony. Từ lúc được ra mắt vào năm 1968, chiếc TV Trinitron dùng ống phóng hình điện tử đã nhận được sự ca ngợi rộng khắp như là một sản phẩm tuyệt vời xét về mặt giá cả so với các TV truyền thống sử dụng đèn chân không.

Là một trong vài công ty lớn của Nhật Bản đã xâm nhập vào thị trường TV của Mỹ một cách mạnh mẽ trong khi những công ty quốc nội đã đa dạng hóa kinh doanh sang các lĩnh vực khác, Sony từ lâu đã nhắm đến việc mở rộng hoạt động kinh doanh ở xứ sở giàu có này. Họ đã không chậm trễ xây dựng thương hiệu một cách đúng đắn ở đây như một nhà cung cấp sản phẩm điện tử chất lượng cao và hiện đại. Hình ảnh rõ nét đến mức kinh ngạc trên bộ sản phẩm TV Trinitron của công ty đã giúp họ có được sự chú ý của đông đảo người tiêu dùng toàn nước Mỹ.

Tổng hợp


Girls Generation - Korean